Quan điểm và phản đối Tính trung lập của tiền

Nhiều nhà kinh tế học cho rằng tính trung lập của tiền tệ là một ước tính tốt về cách nền kinh tế hoạt động trong khoảng thời gian dài nhưng trong ngắn hạn thì áp dụng lý thuyết cân bằng tiền tệ, trong đó cung tiền danh nghĩa sẽ ảnh hưởng đến sản lượng. Một lập luận cho rằng giá cả và đặc biệt là tiền lương thì cố định (vì chi phí thực đơn, v.v.), và không thể được điều chỉnh ngay lập tức với những thay đổi đột ngột trong cung tiền. Một cách giải thích khác về những ảnh hưởng trong kinh tế thực của các biến động trong cung tiền cho rằng không phải là mọi người không thể thay đổi giá mà là họ không nhận ra rằng họ làm như vậy là vì lợi ích của họ. Phương thức tiếp cận tính hợp lý có giới hạn cho thấy rằng các khoản thu hẹp nhỏ trong cung tiền không được tính khi các cá nhân bán nhà hoặc tìm việc, và do đó họ sẽ dành nhiều thời gian hơn để tìm kiếm một hợp đồng đã hoàn thiện so với khi không có sự thu hẹp tiền tệ. Hơn nữa, việc thay đổi mức lương danh nghĩa tối thiểu do hầu hết các công ty đề ra được quan sát là bằng 0: một con số thất thường theo lý thuyết tính trung lập của tiền tệ nhưng là một ngưỡng tâm lý do ảo giác tiền tệ.

Tính trung lập của tiền đang là câu hỏi trọng tâm của chủ nghĩa tiền tệ. Những câu trả lời quan trọng nhất đã được trình bày chi tiết trong cơ cấu của đường cong Phillips. Milton Friedman, người đưa ra giả thuyết kỳ vọng thích ứng, đã phân biệt một dãy đường cong Phillips ngắn hạn và dài hạn, trong đó các đường cong ngắn hạn được cho là đường cong thông thường, có độ dốc xuống, trong khi đường cong dài hạn thực sự là một đường thẳng đứng biểu thị tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Theo Friedman, tiền không mang tính trung lập trong ngắn hạn, vì các đại diện kinh tế bị nhầm lẫn do ảo giác tiền tệ nên luôn phản ứng với những thay đổi trong cung tiền. Nếu cơ quan quản lý tiền tệ tăng lượng tiền dự trữ và mức giá thì các đại diện kinh tế sẽ không bao giờ phân biệt được những thay đổi thực và danh nghĩa, cho nên họ sẽ xem việc tăng lương danh nghĩa là những thay đổi thực sự, do đó cung lao động cũng sẽ được thúc đẩy. Tuy nhiên, sự thay đổi này chỉ là tạm thời, vì các đại diện sẽ sớm nhận ra tình hình thực tế của sự việc. Vì tiền lương cao kèm theo giá cả cao hơn, nên không có thay đổi thực tế nào về thu nhập, nghĩa là không cần phải tăng cung lao động. Cuối cùng, nền kinh tế sau lần chệch hướng ngắn hạn này, sẽ trở lại điểm xuất phát, hay nói cách khác, trở lại tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.

Kinh tế học vĩ mô tân cổ điển được phổ biến bởi Robert E. Lucas, cũng có đường cong Phillips riêng. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên phức tạp hơn trong các mô hình này, vì các kỳ vọng hợp lý đã được giả định. Đối với Lucas, mô hình các hòn đảo tạo nên cơ cấu chung trong đó các cơ chế nằm bên dưới đường cong Phillips có thể được xem xét kỹ lưỡng. Mục đích của mô hình đảo Lucasian đầu tiên (1972) là thiết lập một cơ cấu để hỗ trợ hiểu biết về bản chất của mối quan hệ giữa lạm phát và hoạt động kinh tế thực bằng cách giả định rằng mối quan hệ này không có sự đánh đổi nào mà chính sách kinh tế có thể khai thác được. Ý định của Lucas là chứng minh đường cong Phillips tồn tại mà không thực sự tồn tại. Có một giả thuyết là có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp hoặc hoạt động kinh tế thực, vì vậy không nghi ngờ gì nữa, có một đường cong Phillips ngắn hạn (hoặc có những đường Phillips ngắn hạn). Mặc dù có ít hành động khả thi hơn đối với chính sách tiền tệ nhằm lừa dối người dân để tăng nguồn cung lao động, nhưng những thay đổi bất ngờ luôn có thể gây ra những thay đổi thực sự. Những mục đích cuối cùng của NHTW khi thay đổi lượng tiền cung ứng là gì? Ví dụ, chủ yếu là: kiểm soát chống chu kỳ. Làm như vậy, chính sách tiền tệ sẽ tăng cung tiền để loại bỏ những tác động tiêu cực của một cú sốc kinh tế vĩ mô không có triển vọng. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ không thể dùng sự đánh đổi giữa lạm phát và hoạt động kinh tế thực, vì không có sẵn thông tin về những cú sốc để loại bỏ. Trong tình trạng này, ngân hàng trung ương không thể lập kế hoạch hành động, đó là một chính sách tiền tệ chống chu kỳ. Các đại diện chỉ có thể tự phụ trước những thay đổi bất ngờ, do đó, một chính sách kinh tế nổi tiếng là hoàn toàn vô ích. Tuy nhiên vấn đề là ngân hàng trung ương không thể lường trước những cản trở bất ngờ, bởi vì họ không có lợi thế về thông tin so với các đại diện. Ngân hàng trung ương không có thông tin về cái gì sẽ bị loại bỏ qua các hành động chống chu kỳ. Việc đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp tồn tại, nhưng nó không thể bị chính sách tiền tệ dùng cho các mục đích chống chu kỳ.[4]

Chương trình nghiên cứu của New Keynes đặc biệt nhấn mạnh các mô hình mà trong đó tiền không mang tính trung lập trong ngắn hạn, và do đó chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế thực.

Kinh tế học hậu Keynes và lý thuyết mạch tiền tệ bác bỏ tính trung lập của tiền tệ, thay vào đó nó nhấn mạnh vai trò của việc vay tiền ngân hàng và tín dụng ngân hàng trong quá trình tạo ra tiền ngân hàng. Những người theo trường phái hậu Keynes cũng nhấn mạnh vai trò của nợ danh nghĩa: vì số nợ danh nghĩa nói chung không liên quan đến lạm phát, lạm phát làm xói mòn giá trị thực của nợ danh nghĩa và giảm phát làm tăng nó, gây ra các tác động trong nền kinh tế thực như trong giảm phát nợ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tính trung lập của tiền //doi.org/10.1007%2F978-3-319-17578-2 //doi.org/10.1086%2F258771 //doi.org/10.1111%2Fj.1540-6261.1977.tb03305.x //doi.org/10.1111%2Fj.1540-6261.1979.tb02069.x //doi.org/10.1111%2Fj.1540-6261.1985.tb04977.x http://www2.um.edu.uy/dtrupkin/walsh.pdf https://books.google.com/books?id=mFe17okC_EcC&pg=... https://books.google.com/books?id=mFe17okC_EcC&pg=... https://books.google.com/ngrams/graph?content=neut... https://ideas.repec.org/a/lus/reveco/v66y2015i3p28...